Nhân tố tác động xuất khẩu dệt may Việt Nam năm 2012
Ảnh minh họa. Nguồn: baohaiquan.vn |
Thứ hai, tăng cường mở rộng hoạt động xuất khẩu sang các thị trường mới. Khủng hoảng kinh tế đã khiến các nhà nhập khẩu đang chuyển dần đơn hàng sang các thị trường khác để hưởng chế độ ưu đãi. Đặc biệt, các nhà nhập khẩu EU đang chuyển dần đơn hàng từ Việt Nam sang Campuchia, Lào và Bangladesh nhằm tránh mức thuế nhập khẩu 10% để tiết kiệm chi phí, do những quốc gia này còn được hưởng tiêu chuẩn Tối huệ quốc (MFN) với mức thuế suất nhập khẩu 0%. Trước tình hình đó, doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải nỗ lực tìm khách hàng mới, cơ cấu lại thị trường xuất khẩu, mở rộng sang các thị trường mới, tập trung vào mặt hàng có giá trị gia tăng cao và đầu tư vào ngành công nghiệp nguyên phụ liệu. Hiện, hàng dệt may Việt Nam đã có mặt ở các thị trường mới, như: Pakistan, Angola, Canada, Panama, Hàn Quốc… và được các nhà nhập khẩu chấp nhận với nhiều đơn hàng lớn. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng tăng cường xuất khẩu sản phẩm sợi sang thị trường Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Trung Đông, Châu Phi.
Thứ ba, tiếp tục đầu tư nâng cấp chất lượng hàng xuất khẩu. Ngành Dệt may Việt Nam tiếp tục đầu tư vào khâu công nghiệp nguyên phụ liệu; nâng cấp các nhà máy vải theo hướng nâng chất lượng vải chuẩn để làm ra hàng xuất khẩu chất lượng cao. Đồng thời, triển khai chương trình sản xuất xơ polyester với mục tiêu đến năm 2015 sẽ chủ động được 70-80%, nhằm đạt mục tiêu bứt phá về những sản phẩm cốt lõi có giá trị gia tăng cao. Đây là chiến lược bứt phá về những sản phẩm cốt lõi có giá trị gia tăng cao và sẽ tạo nên một động lực cho ngành Dệt may phát triển để thực hiện thành công mục tiêu trong giai đoạn 2012 -2015. Bên cạnh đó, triển khai các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia để khai thông thị trường, nhất là các thị trường tiềm năng như Thái Lan, Malaysia.
Thứ tư, đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa. Do những khó khăn về xuất khẩu đã khiến nhiều doanh nghiệp cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư mạnh cho thị trường nội địa. Thị trường nội địa, được coi là một cứu cánh của nhiều doanh nghiệp dệt may trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Vì vậy, chiến lược hành động thành công của hầu hết các doanh nghiệp dệt may là đẩy mạnh chiếm lĩnh thị trường nội địa. Năm 2012 mặc dù người dân phải thắt chặt chi tiêu, nhưng ngành Dệt may vẫn có mức tăng trưởng khá. Điều này chứng tỏ sản phẩm dệt may đã có chỗ đứng vững chắc hơn trên thị trường nội địa. Với chiến lược phát triển thị trường nội địa, các doanh nghiệp thuộc tập đoàn đã tích cực tham gia các hoạt động như đưa hàng về nông thôn, hội chợ quảng bá sản phẩm dệt may…
Thứ năm, xây dựng chiến lược cạnh tranh dài hạn đúng đắn. Qua những năm khó khăn của khủng hoảng kinh tế thế giới (2008) đã khẳng định sự đúng đắn trong từng bước đi của ngành Dệt may. Trong suốt 10 năm phát triển của dệt may khi hội nhập, Việt Nam đã và vẫn tiếp tục gắt hái thành quả từ chiến lược đúng đắn đó. Bởi đối với thị trường xuất khẩu truyền thống như dệt may thì những thao tác, thủ thuật ngắn hạn không đem lại con số quyết định cuối cùng hay là thành quả của cả một năm được mà là do cải thiện đáng kể về tỷ lệ nội địa hóa, từ chỗ chỉ có 25%-30% nguồn gốc nguyên liệu nội địa lên đến 48%-50% (2012). Tuy nhiên, nếu so với các nhà sản xuất lớn như Trung Quốc (90% tỷ lệ nội địa) hay Ấn Độ (tỷ lệ nội địa hóa lên tới 90%-95%) thì rõ ràng dệt may Việt Nam vẫn còn những hạn chế.