Đội Hoàng Sa: Cách thức thực thi chủ quyền độc đáo của Việt Nam trên các vùng quần đảo giữa biển Đông trong các thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX- Phần 1
Các nhà nước phong kiến Việt Nam xưa do ý thức được sâu sắc vị trí đặc biệt quan trọng của biển, đảo trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước nên từ rất sớm đã có chiến lược biển đảo và đề ra các chủ trương khai chiếm các quần đảo giữa biển Đông.Cuốn sách cổ ghi chép tương đối đầy đủ và cụ thể những điều tai nghe, mắt thấy về đội Hoàng Sa là Phủ Biên tạp lục của nhà bác học Lê Quý Đôn viết vào năm 1776. Sách chép: “Phủ Quảng Ngãi ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré,....; phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và những hoa vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi 3 ngày 3 đêm thì mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải”(1) và “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào...”(2).
Các tác giả trong nước và quốc tế đều thống nhất cho rằng đây là nguồn tài liệu xác thực và có giá trị quan trọng bậc nhất để nghiên cứu về đội Hoàng Sa. Bản thân chúng tôi cũng từng có một số nghiên cứu và công bố về giá trị bất hủ của trang sử liệu nói trên(3). Bài viết này xin được bắt đầu từ các thông tin cơ bản trong sách Phủ Biên tạp lục và mở rộng điều tra khảo sát các nguồn tư liệu đương đại khác của Việt Nam và nhiều nước có liên quan. Trên cơ sở đó, chúng tôi phác dựng lại hình ảnh khách quan và chân thực của công cuộc khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền của các nhà nước Việt Nam ở khu vực Hoàng Sa và Trường Sa thông qua hoạt động của đội Hoàng Sa trong khoảng 2 thế kỷ, tính từ những thập kỷ đầu thế kỷ XVII cho đến những thập kỷ đầu thế kỷ XIX.
Bộ chính sử được hoàn thành chỉ một thời gian ngắn sau Phủ Biên tạp lục là Đại Việt sử ký tục biên(4). Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) do Quốc sử viện thời Lê Trịnh tổ chức biên soạn, nối tiếp vào quyển XIX sách Đại Việt sử kỷ toàn thư, trong đó đoạn ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa trên căn bản không khác ghi chép của Lê Quý Đôn. Đại Nam thực lục Tiền biên là phần đầu bộ chính sử của vương triều Nguyễn được khởi soạn năm 1821, hoàn thành và khắc in năm 1844, nhân nói đến sự kiện tháng 7 năm 1754 “dân đội Hoàng Sa ở Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa, gặp gió dạt vào hải phận Quỳnh Châu nước Thanh. Tổng đốc Thanh hậu cấp cho rồi cho đưa về. Chúa [Nguyễn Phúc Khoát] sai viết thư [cám ơn]” đã mô tả Vạn Lý Trường Sa và các đội Hoàng Sa, Bắc Hải được tổ chức từ thời “quốc sơ” (tức là từ thời các chúa Nguyễn đầu tiên) không có gì khác với Phủ Biên tạp lục và Đại Việt sử ký tục biên(5).
Đội Hoàng Sa kiêm quân Bắc Hải được thành lập từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687). Khi các vị Chúa Nguyễn truyền dụ phường An Vĩnh, Cù Lao Ré, tổng Quảng Nghĩa (nay là xã An Vĩnh, huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) lập những đội quân ra Hoàng Sa, Trường Sa bảo vệ chủ quyền và khai thác các sản vật quý để tiến vua
Toản tập An Nam lộ của Đỗ Bá Công Đạo người xã Bích Triều, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An soạn năm Chính Hòa thứ 7 (1686), phần bản đồ phủ Thăng Hoa và phủ Quảng Ngãi, phía ngoài biển có vẽ Bãi Cát Vàng và ghi chú rõ: “Mỗi năm đến tháng cuối đông [chúa Nguyễn] đưa 18 chiếc thuyền đến đó [Bãi Cát Vàng] nhặt vàng bạc”(6). Khoảng một thập kỷ sau, vị Hoa thượng Trung Quốc nổi tiếng trụ trì ở chùa Trường Thọ, tỉnh Quảng Đông là Thích Đại Sán sang Đàng Trong trên đường về nước đã mô tả khá chi tiết về bãi cát Vạn Lý Trường Sa và cho biết: “Các Quốc vương thời trước [tức các Chúa Nguyễn trước Nguyễn Phúc Chu (1691-1725)] hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo các bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào”(7). Năm 1701, nghĩa là chỉ 15 năm sau bản đồ Đỗ Bá và 4-5 năm sau Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, các giáo sĩ người Pháp trên tầu Amphitrite khẳng định: “Paracel là một quần đảo thuộc về vương quốc An Nam”(8).
Như thế các tư liệu đương đại của cả Việt Nam, Trung Quốc và phương Tây đều chép rất cụ thể, rõ ràng và thống nhất về sự hiện diện của đội Hoàng Sa vào thời kỳ đầu của các Chúa Nguyễn trong thế kỷ XVII. Vấn đề đặt ra là vào thời điểm cụ thể nào của thế kỷ XVII và vị Chúa Nguyễn nào là người đầu tiên tố chức ra đội Hoàng Sa?.
Tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) còn giữ được tờ đơn đề ngày 15 tháng Giêng năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775) do Hà Liễu là Cai hợp phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh đứng tên xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa. Đơn cho biết: “Nguyên xã chúng tôi xưa có hai đội Hoàng Sa và Quê Hương. Vào năm Tân Mùi (1631?), Đốc chiến là Võ Hệ đã đệ đơn xin tâu được lập hai đội nữa là đội Đại Mạo Hải Ba và đội Quế Hương Hàm với số đinh 30 người...”.
Tại các tài liệu lịch sử đều ghi lại và cho thấy, đội Hoàng Sa được thành lập từ thời Chúa Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687). Đội Hoàng Sa tiếp tục được tồn tại và duy trì hoạt động dưới nhiều triều đại khác nhau. Năm 1803, sau khi lên ngôi được một năm, (năm Gia Long thứ 2), vua đã ra chỉ dụ cho đội Hoàng Sa tiếp tục công việc như cũ
Đối chiếu tư liệu này với nguồn tư liệu phương Tây đương đại, có thể hình dung ra được một cách cụ thể hơn về thời điểm ra đời của đội Hoàng Sa: Ngày 6 tháng 3 năm 1636, Abraham Duijcker là người điều hành thương điếm Hà Lan ở Faifoo (Hội An) được chúa Nguyễn Phúc Lan (1635-1648) tiếp. Trong cuộc tiếp kiến này “Duijcker đã chuyển đến Chúa một điều khiếu nại. Đó là việc chiếc tàu mang tên Grootebroek bị đắm ở ngoài khơi bãi cát Paracels, đoàn thủy thủ đã được các người Việt xứ Đàng Trong cứu giúp, nhưng đồng thời cũng lấy đi tổng số tiền là 25.580 réaux, vậy nên trưởng điếm Duijcker có nhiệm vụ xin được bồi hoàn món tiền đó. Ông ta được trả lời rằng những việc đó đã được xảy ra từ thời chúa trước [tức chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635)], không nên đề cập đến nữa, ngược lại, người Hà Lan từ nay sẽ được hoàn toàn tự do mang hàng hóa đến buôn bán, được miễn thuế, vả lại, sau này nếu có tàu Hà Lan bị đắm ở ngoài khơi thì sẽ không có chuyện tịch thu hàng hóa được cứu hộ nữa”(9).
Tư liệu chung quanh vụ đắm tàu Grootebroek ở Hoàng Sa ngày 21 tháng 7 năm 1634 xác nhận vai trò của những đoàn người Việt xứ Đàng Trong ở quần đảo Hoàng Sa làm công tác cứu hộ, rồi đưa các nạn nhân về vùng Quảng Nam. Họ thường xuyên đi thuyền ra Hoàng Sa kiểm soát vùng biển và đảo. Chúng ta có đủ cơ sở để tin rằng lực lượng người Việt xứ Đàng Trong cứu tầu Grootebroek tại Hoàng Sa ngày 21 tháng 7 năm 1634 chính là những người của đội Hoàng Sa đảo Lý Sơn (được thành lập trước năm Tân Mùi (1631) qua phản ánh của tờ đơn xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa lưu tại nhà thờ họ Võ phường An Vĩnh).
Chúa Nguyễn Hoàng vào Nam dựng nghiệpgiữa lúc nhu cầu chiếm lĩnh các quần đảo giữa biển Đông đặt ra gay gắt và bức thiết. Được thừa hưởng những cơ sở và kinh nghiệm của người Chăm và vương quốc Chămpa trước đây, Nguyễn Hoàng đã sớm chăm lo xây dựng các đội thuyền, mở cửa buôn bán với nước ngoài để phát huy sức mạnh trong nước và chuẩn bị những bước đi đầu tiên cho việc chiếm lĩnh các quần đảo giữa biển Đông, nhưng chưa thấy có tư liệu nào khả dĩ cho hay vào thời kỳ Nguyễn Hoàng (1558-1613) đã có đội Hoàng Sa. Công việc thực thi chủ quyền ở khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo chúng tôi, chỉ thật sự bắt đầu khi chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên nắm quyền. Các sự kiện có liên quan đến hoạt động của đội Hoàng Sa xảy ra vào các năm 1634, 1631 hay trước 1631 một ít năm, thì cũng đều nằm trong thời kỳ chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Có đủ cơ sở để khẳng định đội Hoàng Sa xuất hiện lần đầu tiên vào thời kỳ chúa Nguyễn Phúc Nguyên hay chúa Nguyễn Phúc Nguyên chính là người đã lập ra đội Hoàng Sa - một hình thức khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền hết sức độc đáo trên các vùng quần đảo giữa biển Đông.
Chú Thích
* GS.TS: Nguyễn Quang Ngọc, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, ĐHQG Hà Nội.
- Lê Quý Đôn: Toàn tập (Phủ Biên tạp lục), TI, Bản dịch Nxb KHXH, Hà Nội, 1977, tr 116.
- Lê Quý Đôn: Toàn tập (Phủ Biên tạp lục), TI, Sđd, tr 119.
- Tham khảo Nguyễn Quang Ngọc: Giá trị của các trang sử liệu viết về Hoàng Sa, Trường Sa trong sách Phủ Biên tạp lục, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 5 (318), tháng 9-10 năm 2001, tr 30-38 và 20 năm Việt Nam học theo định hướng liên ngành, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2008, tr 356-373.
- Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789), Bản dịch Nxb KHXH, Hà Nội, 1991, tr 243-244.
- Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, TI, Bản dịch Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr 164.
- Phần chú bằng chữ Nôm Toàn tập An Nam lộ trong Thiên hạ bản đồ lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2628.
- Thích Đại Sán: Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế, tr.125.
- Jean.Yves Clayes: Journal de Voyage aux Paracels (Indochine No 45, 1941, tr.7).
- Ch.B.Maybon: Les marchands europe ens are Cochinchine et au Tonkin (1660-1775), (Revue Indochinoise 1916).