Thủy quân Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX qua các nguồn sử liệu phương Tây -Kỳ 2
Mặc dù các chúa Nguyễn ở Đàng Trong vẫn tiếp tục quan tâm đến việc mở rộng lực lượng thủy quân vào cuối thế kỷ XVII đầu XVIII, nhưng sự phát triển đột phá về sức mạnh hải quân của Việt Nam chỉ có được là vào cuối thế kỷ XVIII, cùng thời điểm với sự nổi dậy của nghĩa quân Tây Sơn.Mặc dù các chúa Nguyễn ở Đàng Trong vẫn tiếp tục quan tâm đến việc mở rộng lực lượng thủy quân vào cuối thế kỷ XVII đầu XVIII, nhưng sự phát triển đột phá về sức mạnh hải quân của Việt Nam chỉ có được là vào cuối thế kỷ XVIII, cùng thời điểm với sự nổi dậy của nghĩa quân Tây Sơn. Các cuộc chinh phạt của quân Trịnh vào Huế, các trận đánh giữa quân chúa Nguyễn và quân Tây Sơn, giữa anh em nhà Tây Sơn với nhau, hay giữa quân Nguyễn Ánh và nhà Tây Sơn phần lớn diễn ra trên môi trường sông nước và dựa vào đường biển để di chuyển. Chính vì thế, sức mạnh hải quân có ý nghĩa sống còn đối với các thế lực phong kiến này. Chính Nguyễn Ánh là người đã tận dụng được kỹ thuật và phương tiện của phương Tây vào phát triển lực lượng hải quân và giành thắng lợi cuối cùng lập nên nhà Nguyễn vào năm 1802.
Sự phát triển của sức mạnh hải quân của Việt Nam cuối thế kỷ XIX làm kinh ngạc bất cứ người châu Âu nào khi họ có dịp đến đây. John Barrow, một người Anh đến Đàng Trong vào những năm 1792-1793 đã miêu tả tỉ mỉ kỹ nghệ đóng thuyền của người Đàng Trong như là một trong những nghề mà họ thành thạo nhất. Ông nhấn mạnh đến kỹ thuật chia đáy thuyền thành các khoang khác nhau và vì thế thuyền sẽ không bị chìm dù va phải đá ngầm. Theo J. Barrow, kỹ nghệ đóng thuyền này thậm chí đang được áp dụng cho hải quân của hoàng gia Anh(1). Sự phát triển mạnh mẽ của nghề đóng thuyền ở Đàng Trong một phần là để phục vụ cho hoạt động thương mại, nhưng phần lớn là do nhu cầu thuyền chiến cho các cuộc chiến tranh.
Những tàu chiến của quân Tây Sơn thường rất lớn, có thể chở được nhiều trọng pháp và binh lính. Trong lá thư gửi cho người bạn là Barizy ngày 2-3-1801, Chaignueau, một viên sĩ quan Pháp phục vụ trong quân đội Nguyễn Ánh đã khoe khoang rằng quân của ông ta đã phá hủy được đội thuyền của Tây Sơn trong đó cóchiếc được trang bị tới 50-60 khẩu đại bác hạng nặng(3).Theo thống kê của L. Barizy, một viên cố vấn người Pháp của Nguyễn Ánh, trong trận hải chiến giữa quân Tây Sơn và Nguyễn Ánh ở vùng biển Bình Định – Phú Yên vào tháng 2-1801, quân Tây Sơn có 9 chiếc thuyền loại 66 đại bác và chở 700 thủy binh, 5 chiếc loại chở 50 đại bác với 600 thủy quân, 40 chiếc loại 50 đại bác chở 200 thủy binh cùng hàng trăm thuyền chiến galê và thuyền buồm nhỏ khác(4). Nếu so sánh với những thuyền chiến cuối thế kỷ XVII với tải trọng nhiều nhất khoảng 20 khẩu pháo và khoảng 100 người, ta có thể thấy trong vòng một thế kỷ, kỹ thuật đóng thuyền đã có những tiến bộ vượt bậc như thế nào.
Sự phát triển của kỹ thuật hàng hải ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX có sự tác động rất lớn của người châu Âu, đặc biệt là người Pháp. Chính vì biết được nhu cầu về thuyền chiến và vũ khí của các lực lượng bản địa, người châu Âu đã chủ động tiếp cận và thực hiện trao đổi mua bán vũ khí. John Barrow có nhắc đến sự kiện năm 1792, viên cố vấn người Pháp Evêque d’Adran đã khuyên Nguyễn Ánh mua 1 tàu chiến của Pháp và 7 tàu của người Bồ Đào Nha ở Sài Gòn để đem đánh Nguyễn Nhạc ở Quy Nhơn. Tuy nhiên, trước khi chiến trận nổ ra, người Bồ Đào Nha đã bỏ chạy cùng với thuyền của họ sang Macao(5).
Theo J. Barrow, trong thời gian đầu Nguyễn Ánh không có nhiều thuyền chiến để đối phó với quân Tây Sơn vốn sở hữu rất nhiều tàu lớn và vũ khí. Tuy nhiên, các đội thuyền của Nguyễn Ánh dưới sự chỉ huy của cố vấn Pháp đã giành được nhiều ưu thế trên chiến trường. Các viên tướng người Pháp Jean-Marie Dayot, Jean-Bapstiste Chaigneau và Pigneau de Behaine được Nguyễn Ánh đặc biệt trọng dụng, giao trọng trách huấn luyện hải quân. Cách thức tổ chức và kỷ luật của thủy quân Nguyễn Ánh được phái đoàn người Anh quan sát và thuật lại nhân dịp họ được hộ tống từ Sài Gòn ra Huế như sau:
"Các thuyền trong đoàn hộ tống chúng tôi trông giống như các thuyền chiến bình thường khác. Mỗi cái dài không dưới 90 feet (tương đương 27,5m), nhưng bề ngang rất hẹp. Chúng được thiết kế chắc chắn và có một cặp buồm. Mỗi thuyền có 5 khẩu đại bác lớn được thiết kế và đúc giống như đại bác của người châu Âu. Đoàn thủy thủ gồm có 40 tay chèo, không kể người thuyền trưởng và các quan viên khác, tất cả đều mặc đồng phục. Kỷ luật ở trên thuyền rất nghiêm khắc mà tôi không thể nào tưởng tượng nổi. Các tay chèo ra sức chèo liên tục trong một sự kết hợp hoàn hảo. Vị chỉ huy vừa đếm vừa gõ vào hai thanh lệnh bằng gỗ hình trụ tạo ra tiếng kêu. Tất cả sự liên lạc giữa thuyền này với thuyền khác được thực hiện bởi kèn hiệu lệnh. Khi hạ neo, sẽ có người canh gác thuyền và họ thường xuyên thay phiên nhau”(6). Đây có lẽ là đoàn thuyền hoàng gia, phục vụ vũ khí sơ sài hơn so với các hạm thuyền hoạt động trên biển. Trong một ghi chép của người Anh tên là Berry năm 1799, hạm đội tàu của Nguyễn Ánh gồm 3 tàu chiến galê và 40 thuyền mành, 200 thuyền nhỏ và 800 thuyền vận tải(7).
Không chỉ đóng vai trò là chỉ huy của nhiều hạm đội trong lực lượng hải quân của Nguyễn Ánh, người Pháp còn giúp Nguyễn Ánh xây dựng các xưởng sản xuất vũ khí và xưởng đóng thuyền. Chỉ trong vòng 2 năm (1792-1793), Pigneau de Behaine đã giúp Nguyễn Ánh đóng được hơn 300 chiếc tàu chiến, 5 thuyền buồm và một đội lính thủy được tổ chức theo mô hình của châu Âu. Với sự giúp sức của người Pháp và sự chủ động của Nguyễn Ánh, từ chỗ đội quân của Nguyễn Ánh chỉ có duy nhất 1 thuyền vào 1793, số thuyền của Nguyễn Ánh đã tăng lên tới 1200 chiếc. Trong số thuyền này có 3 chiếc được xây dựng theo kiểu châu Âu và 20 chiếc thuyền mành lớn giống như của người Trung Quốc nhưng được trang bị đầy đủ vũ khí, và số còn lại là tàu chiến và tàu vận tải(8).
Với sự phát triển đáng kinh ngạc của lực lượng hải quân ở Đàng Trong, J.Barrow đặt ra câu hỏi rất thú vị rằng: “Liệu trong vòng mười năm chiến tranh ác liệt như thế, cũng ở một đất nước (Đàng Trong-TG) như thế, các thần dân rất năng nổ của vua Louis XVI (chỉ chính phủ Pháp - TG) có thể xây dựng được một đội quân hùng mạnh như vậy không? Và điều gì có thể khiến cho chính phủ Pháp hiện tại chưa dám thử thiết lập thuộc địa ở phần còn lại của phương Đông này”(9). Có lẽ J. Barrow ám chỉ đến sức mạnh hải quân của nhà Nguyễn khiến cho Pháp còn ngập ngừng trong việc xâm chiếm Việt Nam, trong khi theo Hiệp ước Versailles năm 1787, Nguyễn Ánh chấp nhận cho quân Pháp can thiệp vào Việt Nam.
Bản thân J. Barrow đánh giá rất cao vai trò chủ động và sáng tạo của Nguyễn Ánh trong việc tiếp tục thu kỹ thuật phương Tây. Theo J. Barrow, Nguyễn Ánh đã mua một tàu của người Bồ Đào Nha, sau đó tự tay nhà vua tháo dỡ ra và thay vào đó các thiết bị mà mình chế tạo. Con tàu vì thế hoàn toàn được cải tiến. Nhà vua thường dậy rất sớm, và sau buổi chầu là đi thẳng đến xưởng sản xuất vũ khí để kiểm tra xem các thợ có làm theo đúng sắp xếp của mình không.
Bên cạnh việc chăm lo mở rộng các xưởng sản xuất vũ khí và thuyền chiến, Nguyễn Ánh cũng đốc thúc việc tuyển quân vào trong các hạm đội. Theo thống kê của J. Barrow đến năm 1800 tổng số binh lính trong lực lượng hải quân của nhà Nguyễn lên tới 26.800 người gồm có: 800 người làm việc trong xưởng thuốc súng, 8.000 người là thủy thủ, 1.200 làm việc trên thuyền kiểu châu Âu, 1.600 người trên thuyền mành, 800 người trên 100 thuyền galê. So với số quân trên bộ là 113.000 người, lực lượng lính thủy chiếm gần một phần tư tổng số quân lính của nhà Nguyễn(10).
Có vẻ như sau khi đã đánh bại nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn đã không còn chú tâm phát triển lực lượng hải quân như trước nữa. Những ghi chép liên quan đến công việc đóng thuyền của người Việt giai đoạn đầu thế kỷ XIX thường đề cập nhiều đến các loại thuyền nhỏ, phục vụ cho hoạt động thương mại hoặc nhu cầu của hoàng gia hơn là những chiến thuyền lớn để cung cấp cho quân đội. Điều này được phản ánh khá rõ trong ghi chép của John White, một người Mỹ đã đến Đàng Trong vào năm 1819.
Khi John White đến thăm một xưởng đóng tàu bên sống Sài Gòn, ông vẫn thấy các vật liệu dùng để đóng tàu, nhưng không thấy công việc đóng tàu được triển khai. Ông viết “về phía Đông Bắc Sài Gòn, bên bờ một con sông sâu là công xưởng đóng tàu và khi vũ khí hải quân. Nơi đây trong thời chiến người ta đóng những thuyền chiến lớn và với sự chỉ đạo của sĩ quan người Pháp, họ đã đóng hai chiếc thuyền chiến (frigate) kiểu châu Âu.
Một loại thương thuyền linh hoạt do John White vẽ lại - Ảnh tư liệu
Xưởng này làm tăng niềm tự hào của người An Nam so với những gì họ có trong xứ. Nó có thể cạnh tranh với những xưởng tốt nhất ở Châu Âu. Khi chúng tôi tới đây thì không có một chiếc thuyền lớn nào chạy ra, cũng không có cái nào đang được đóng, nhưng có rất nhiều vật liệu tốt đủ để đóng tàu frigate. Gỗ đóng tàu và vỏ tàu là những thứ rất đẹp mà tôi chưa từng thấy. Tôi đo một miếng ván vỏ tàu dài 109 feet (khoảng 33m), dày 4 feet (11 cm) và rộng 2 feet (60 cm). Nó được cưa ra từ một thân cây gỗ tếch (teck). Tôi khó tin là người ta co thể kiếm đâu ra trên thế giới một cây vĩ đại đến như thế.
Tôi đã thấy ở các xứ này một thân cây không có mấu mà người ta có thể làm cột buồm lớn cho tàu chạy đường trường. Và người ta nói với tôi là cái đó cũng không hiếm lắm. Có khoảng 150 chiến thuyền galê rất đẹp nằm dưới mái che. Chúng dài từ 40 đến 100 feet (12 đến 30 cm) và chúng mang từ 4 đến 6 khẩu đại bác với đạn từ cỡ 4 đến 12 cân. Tất cả đều được đúc bằng đồng rất đẹp. Ngoài ra còn có 40 chiến thuyền đang được sửa soạn cho viên tổng trấn (Lê Văn Duyệt) khi ông ta trở lại từ Huế. Phần lớn các thuyền được chạm trổ rồng phượng, được sơn son thiếp vàng, màu sắc sặc sỡ. Quang cảnh thật là sống động. Người An Nam thực quả là những kiến trúc sư đóng tàu thật khéo léo và tác phẩm của họ thật là tuyệt. Tôi rất ấn tượng về cái ngành này trong nền kinh tế của họ và vì thế đã đi xem nhiều lần công xưởng này"(11).
Dựa trên những chi tiết trang trí trên thuyền và việc Lê Văn Duyệt sắp từ Huế vào Sài Gòn lấy 40 thuyền, chúng ta có thể đoán được rằng các thuyền được đóng ở xưởng này chủ yếu là để phục vụ cho đội thuyền của hoàng gia ở kinh thành Huế, chứ không phải là để phục vụ hải quân hoạt động trên biển. John White cũng cho biết rằng, nhà vua có một đội thuyền lớn ở Huế.
Trong năm 1819, có thêm 200 chiếc thuyền được đóng, mỗi chiếc thuyền buồm có mái chèo, được thiết kế theo phong cách châu Âu. Thân thì hoàn toàn giống với thuyền châu Âu, nhưng mái chèo là sự kết hợp giữa phong cách châu Âu và An Nam. John White hết lời ca ngợi khả năng học hỏi tuyệt vời của người “An Nam” với khoa học và công nghệ đóng thuyền của châu Âu. Thậm chí ông còn cho rằng trong số các quốc gia ở châu Á thì Đàng Trong có khả năng thích ứng tốt nhất với cuộc phưu lưu trên biển.
Lý do được John White đưa ra là vì so với các cường quốc khác trong khu vực thì Đàng Trong có vị trí địa lý thuận lợi nhất, có cơ sở vật chất để xây dựng nên đội hải quân hùng hậu bảo vệ cho hoạt động thương mại, các cảng biển thì quá hoàn hảo cho tàu thuyền ra vào, dân cư thì quen thuộc với môi trường sống nước. Khả năng đi biển của người “An Nam” thậm chí có thể cạnh tranh được với các thủy thủ của Trung Quốc(12).
Đến Huế vào năm 1823, một thành viên của pháp đoàn ngoại giao Anh John Moor cũng ghi lại hoạt động thuyền và trang bị của các thuyền chiến nhà Nguyễn. Theo John Moor, bên bờ sông trước kinh thành Huế, có các xưởng đóng tàu với khoảng 50 chiếc thuyền hai buồm, mỗi cái được trang bị 14 khẩu đại bác. Do mực nước sông thấp nên nơi đây không có chỗ nào cho các thuyền lớn hơn. Sàn thuyền được trang trí theo kiểu Pháp, nhưng trần, đuôi và boong tàu theo phong cách của Đàng Trong. Các thuyền đều được làm bằng gỗ teck loại tốt và tay nghề của người thợ thì thật tuyệt vời. Đâu đâu cũng nghe thấy tiếng búa đinh tai nhức óc [...].
Ở dưới sông có khoảng 80 thuyền dùng để chở trọng pháo, và khoảng 6 hoặc 8 thuyền nhỏ hơn có thể chở được chở được từ 100 đến 150 tấn. Các thuyền này đều được đóng khoảng 7 hoặc 8 năm trước đây, và bây giờ vì không được sử dụng đến, chúng đều được treo lên. Tổng số thuyền chiến của nhà Nguyễn theo John Moor là 1.530 chiếc, trong đó 50 chiếc thuyền hai buồm chở 14 đại bác, 80 pháo hạm, 100 thuyền lớn các loại, khoảng 300 thuyền galê loại lớn, 500 thuyền galê loại nhỏ, và ở các tỉnh có khoảng 500 thuyền galê loại nhỏ nữa chỉ 20 đến 40 mái chèo. Có đến hai phần ba số thuyền được cất vào trong kho và chỉ dùng trong trường hợp khẩn cấp(13).
Dựa vào hai ghi chép của John White và John Moore, chúng ta thấy có sự khác nhau về nhịp độ công việc của các xưởng đóng thuyền ở Sài Gòn và kinh thành Huế. Có thể là do số lượng các xưởng đóng tàu đã bị thu hẹp và dần chuyển về khu vực kinh thành nhằm dưới sự quản lý trực tiếp của nhà nước. Trong bài viết về nghề đóng thuyền ở Đàng Trong vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, học giả Li Tana cũng chỉ rõ sự di cư của một bộ phận lớn những thợ đóng thuyền từ Đàng Trong tới khu vực chuyên đóng thuyền của Xiêm là Chanthaburi vào cuối thập niên 1830. Thậm chí nhiều người Việt sau khi di cư sang đất Xiêm đã được bổ nhiệm các chức quan trong lực lượng hải quân của triều đình Xiêm(14).
3. Thay cho lời kết
Sự di cư của một bộ phận lớn dân cư ở Đàng Trong sang đất Xiêm có liên quan mật thiết đến chính sách cấm đạo khắt khe của nhà Nguyễn. Nhiều thợ thủ công theo Thiên chúa giáo đã phải trốn sang Xiêm và được chính quyền Xiêm trọng dụng. Việc cấm đạo gay gắt và thái độ giao lưu học hỏi của người Việt với công nghệ và kỹ thuật phương Tây, trong đó có đóng thuyền.
Tư liệu của người phương Tây không đề cập nhiều đến thủy quân của nhà Nguyễn trong hai thập kỷ cuối trước khi thực dân Pháp xâm lược, bởi với chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn, rất ít người phương Tây có điều kiện thâm nhập, tìm hiểu đời sống kinh tế xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, với những gì đã diễn ra vào các năm 1847, 1856, 1858, 1859 chúng ta hoàn toàn có quyền cho rằng đã có sự suy giảm mau chóng về sức mạnh hải quân của nhà Nguyễn.
Lịch sử cho thấy, trong suốt thế kỉ XVII, quân đội chúa Nguyễn đã nhiều lần đánh bại các cuộc tấn công của hạm đội Hà Lan, vốn được coi là mạnh nhất ở vùng biển châu Á thời bấy giờ. Trước đó, năm 1585, theo lệnh của Nguyễn Hoàng, lực lượng hải quân của Đàng Trong gồm 10 chiến thuyền do Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1634) chỉ huy đã tấn công một đoàn thuyền lớn gồm 5 chiếc do Bạch Tần Hiền Quý (Shirahama Kenchi) đến cướp ở Cửa Việt và đã đánh tan 2 chiếc. Trước sự tấn công quyết liệt của lực lượng hải quân Đàng Trong “Hiển Quý sợ chạy... Từ đó giặc biển im hơi”(15).
Như vậy, cũng như chính quyền Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài, các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã rất coi trọng việc bảo vệ chủ quyền và an ninh trên biển. Việc xây dựng lực lượng thủy binh mạnh là một trong những biểu đạt rõ rệt nhất của các chính thể trong việc nhận thức được chủ quyền, bảo vệ vững chắc đất nước cũng như các hoạt động kinh tế đối ngoại.
Trên phương diện kỹ thuật, việc chính quyền Đàng Ngoài, Đàng Trong cũng như các triều đại Tây Sơn và Nguyễn về sau, có thể đóng nhiều loại thuyền, trong đó có chiến thuyền, đã cho thấy truyền thống, khả năng đi biển, chinh phục và làm chủ biển khơi của người Việt. Do có tri thức biển, thông hiểu kỹ thuật chế tác và có những nguồn gỗ quý (gỗ tếch, gỗ sao...) nên thuyền, đặc biệt là với Đàng Trong, không chỉ là phương tiện vận chuyển, đi lại, bảo vệ an ninh...mà thực sự còn là một loại hàng hóa.
Các nguồn tư liệu trong nước, quốc tế cho thấy, trong từng không gian biển, người ta đã biết chế tạp ra các loại thuyền đi biển phù hợp. Cùng với các luồng di cư, truyền thống đóng thuyền của cư dân vùng biển đảo Đông Bắc, vùng Bắc Trung Bộ đã được tiếp nối, phát triển sáng tạo ở các trung tâm đóng tàu, thuyền nổi tiếng vùng Quảng Nam. Truyền thống Việt kế thừa kỹ thuật Champa đã giúp cho ghe bàu Quảng Nam có thể ngược xuôi trên nhiều vùng biển trong nước, quốc tế và giúp chính quyền Đàng Trong giữ vững an ninh vùng biển đảo.
Đến cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, những phát triển trong sức mạnh hải quân của nhà Nguyễn đã góp phần kìm hãm tham vọng xâm chiếm Việt Nam của một số cường quốc phương Tây. Nhà Nguyễn cũng đã nhiều lần đánh bại sự xâm lấn của quân Xiêm vào lãnh thổ phía Nam. Vậy điều gì đã khiến cho một quốc gia vốn có truyền thống phát triển hải quân lâu đời vua sau (Thiệu Trị, Tự Đức) đã không tiếp nối được truyền thống hải thương của cha ông và đã không có được nhận thức đúng về sự hưng thịnh của các cường quốc đại dương (Maritime powers) đồng thời kịp thời đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhằm thích ứng, ngăn chặn những tác động đa chiều của môi trường chính trị khu vực, quốc tế./.
ThS.Phạm Văn Thủy
Chú thích
1. John Barrow: A voyage to Cochin China in the year 1792 và 1973, London: New Street square Publisher, 1806, pp.320.
2. Journal of an embassy from the governor-genernor of India to the courts of Siam and Cochinchina, London: Henry Colburn and Richard Bentley, 1830, pp.355.
3. “Thư của Chaigneun gửi cho Barizy ngày 2-3-1801”. Dẫn theo Mantienne Frédéric: Monseigneur Pigneau de Béhaine, Paris: Editions Eglises d’Asie, 1999, pp.130.
4. Thư của L.Barizy gửi Letondal đề ngày 11-4-1801. Dẫn theo Sử địa, số 21, Sài Gòn 1971, tr.66.
5. John Barrow: A voyage to Cochin China in the year 1792 and 1792, London: New-Street square Publisher, 1806, pp.257.
6. Journal of an embassy from the governor-generor of India to the courts of Siam and Cochinchina. London: Henry Colburn and Richard Bentley, 1830, pp. 367.
7. Dẫn theo Mantienne Frédéric: Monseigneaur Pigneau de Béhaine, Paris: Editions Eglises d’ Asie, 1999, pp. 129.
8. John Barrow: A Voyage to Cochin China in the year 1792 and 1793. London: New-Street square Publisher, 1806, pp.275. Theo học giả Li Tana thì đến năm 1819, số thuyền của Nguyễn Ánh đã tăng lên 1482 chiếc; gồm 490 chiếc thuyền galê, 77 đại chiến thuyền, 66 thuyền lớn kiểu châu Âu và số còn lại là thuyền buồm, hoặc ghe bầu loại nhỏ dùng để vận tải. Li Tana: Thuyền và kỹ thuật đóng thuyền ở Đàng Trong, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4-2002, pp.81.
9. John Barrow: A Voyage to Cohin China in the year 1792 and 1793, London: New-Street square Publisher, 1806, pp.275, 283.
10. John Barrow: A Voyage to Cochin China in the year 1792-1793. London: New-Street square Publisher, 1806, pp. 283.
11. John White: A Voyage to Cochin China, London: Longman, 1824, pp. 234-235.
12. John White: A Voyage to Cochin China, London: Longman, 1824, pp. 265.
13. J.H. Moor: Notices of the Indian Archipelago, and adiacent countries. Singapore: Singapore free press, 1837, pp.33-34.
14. Li Tana: Thuyền và kĩ thuật đóng thuyền ở Đàng Trong, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4-2002, tr.90-91.
15. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục tiền biên, Nxb. Giáo dục, H., 2002, tr.32.